|
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau: "Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em"...
Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm B
LÒNG
THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa:
Cv 4,32-35; 1Ga 5,1-6; Ga 20,19-31
MỤC
LỤC
1. Tôma
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa
Giêsu hiện ra với các môn đệ trong một căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái.
Thân xác vinh quang của Ngài tựa hồ như một luồng ánh sáng chiếu qua những
khung cửa kính. Để củng cố niềm tin, Ngài cho các ông xem những vết thương trên
tay chân Ngài khiến cho các ông hết sức vui mừng. Rồi Ngài nói với các ông: Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Điều đó có nghĩa là: Chúa Cha đã sai
Ngài đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, thì Ngài cũng sai các ông đi để
đem lại ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân.
Ngài thổi hơi để thông ban thần khí cho các ông và
nói: Các con hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai thì tội người ấy
được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Với tác động của Chúa
Thánh Thần, Ngài đã trao ban cho các ông một uy quyền thiêng liêng, đó là quyền
tháo cởi. Quyền tha thứ và cầm buộc nếu như tội nhân chưa được xứng đáng.
Thế nhưng ngày hôm đó Tôma lại vắng mặt, ông đã tỏ ra
cứng lòng khi nghe các môn đệ kể lại sự việc. Chúng ta có thể nghĩ rằng sự cứng
lòng của Tôma là một sai lỗi, là một khuyết điểm may mắn, vì nhờ đó mà chúng ta
có được một bằng chứng về sự sống lại của Đức Kitô, bởi vì các môn đệ không phải
là những người cả tin, dễ nghe theo những lời đồn thổi, nhưng các ông đã đòi phải
có những chứng cớ hiển nhiên.
Cũng chính nhờ sai lỗi và khuyết điểm này chúng ta mới
có được những lời lẽ đầy an ủi của Chúa Giêsu: Vì con đã thấy nên con mới tin,
nhưng phúc cho ai không thấy mà tin. Khi phán những lời ấy, có lẽ Chúa Giêsu đã
nghĩ tới hàng triệu triệu người qua dòng thời gian luôn tin tưởng nơi Ngài, mặc
dù đã không một lần nhìn thấy Ngài trên mặt đất này. Và cũng thật hạnh phúc cho
chúng ta, bởi vì chúng ta chưa được nhìn thấy Ngài, chưa được sờ tới gấu áo
Ngài, chưa được nghe Ngài nói, chưa được chứng kiến những phép lạ Ngài làm,
cũng như chưa được ăn và uống với Ngài. Nhưng chúng ta đã tin tưởng nơi Ngài dựa
vào những chứng cớ của các tông đồ, là những người đã dám chết để làm chứng cho
sự phục sinh của Đức Kitô.
Thánh Gioan đã viết trong sách Phúc Âm như sau: Sở dĩ
một số các phép lạ được kể lại là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng cứu thế,
đồng thời nhờ niềm tin tưởng này mà anh em có được sự sống, dĩ nhiên đó phải là
sự sống vĩnh cửu mà chính Ngài muốn đem đến cho thế gian.
Chúng ta hãy Chúa xin củng cố niềm tin của chúng ta,
để một khi đã xác tín việc Chúa sống lại, chúng ta cũng sẽ mạnh dạn làm chứng
cho Chúa như các môn đệ ngày xưa.
2. Khoa học và đức tin
Trong một cuộc hội thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao
thao bất tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là thuốc phiện mê hoặc dân chúng. Thế
nhưng khi bàn bạc và trao đổi, thì một cụ già đã phát biểu như sau:
-
Theo tôi thì khoa học chỉ là chuyện bịa đặt và láo khoét. Viên kỹ sư ngạc nhiên
hỏi cụ già tại sao nói thế, thì cụ già đã trả lời:
-
Ngài chẳng biết gì về tôn giáo, nhưng lại lên tiếng chỉ trích tôn giáo, thì tôi
đây, tôi chả biết gì về khoa học, thì liệu tôi có quyền phê bình khoa học như
tôi vừa phát biểu hay không?
Khoa học và đức tin, phải chăng là hai thái cực đối
nghịch. Làm thế nào để dung hòa đức tin và khoa học.
Từ những ý nghĩ trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng
sáng hôm nay và chúng ta có thể nói: Thánh Tôma, nếu không phải là thánh tổ của
các nhà khoa học thì cũng là một vị thánh có tinh thần khoa học, bởi vì các nhà
khoa học chỉ tin, chỉ công nhận là thật những gì mình có thể kiểm chứng được.
Nhà khoa học trước khi tin, thường nghi ngờ. Cái đó gọi là óc phê bình.
Jean Guitton đã nói: Tôi luôn hoài nghi. Chính vì hoài
nghi mà tôi có được óc phê bình, nhờ đó mà tôi có thể tin vững chắc. Tuy nhiên,
liệu chúng ta có quyền xử dụng óc phê bình trong lòng tin hay không? Dẫu muốn
hay không, thì trong quá trình của lòng tin, chúng ta thường gặp rất nhiều nghi
ngờ như Bernanos đã nói: Tin là hai mươi bốn giờ nghi ngờ trong một ngày, trừ
những giây phút trông cậy. Làm sao chúng ta có thể dung hòa được giữa khoa học
và tôn giáo, giữa lý trí và đức tin. Nếu phân tích, chúng ta sẽ thấy điểm cuối
cùng của khoa học và đức tin nhằm tới chính là Thiên Chúa, tuy nhiên phương
pháp xử dụng thì khác biệt nhau.
Phương pháp của khoa học là phương pháp thực nghiệm,
đi từ những sự việc cụ thể, để rồi dần dần tiến đến cùng Thiên Chúa, là tác giả
của những sự việc cụ thể ấy. Trong khi đó, đức tin thì xuất phát từ Thiên Chúa
dựa vào những điều Ngài mạc khải, Ngài tỏ lộ để tìm biết về Ngài. Cũng theo
Jean Guitton, thì phải làm sao cho lý trí biết tin và nhất là làm cho lòng tin
trở nên có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.
Còn đối với chúng ta, những người tín hữu bình thường
thì không đặt vấn đề như thế. Chúng ta thường nói tin yêu. Càng yêu mến nhiều,
thì càng tin tưởng vững chắc. Và những người có lòng kính mến Chúa thì thường
không cần phải tin, vì họ đã thấy.
Đây là trường hợp của Gioan, khi nhìn thấy bóng người
đi trên mặt biển, trong khi các tông đồ bảo là ma, thì chỉ mình Gioan đã kêu
lên: Thầy đó.
Rồi trong ngôi mộ rỗng, với những dây băng và khăn liệm
được xếp gọn ghẽ, thì Gioan đã tin rằng Chúa đã sống lại. Sở dĩ Gioan đã thấy, đã
tin chỉ vì ông có lòng yêu mến. Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa thắp lên trong
chúng ta ngọn lửa yêu mến, nhờ đó mà lòng tin nhỏ bé của chúng ta sẽ được củng
cố và trở nên vững vàng.
3. Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới
hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức
Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các
môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi
nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không
gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện
trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang
chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài.
Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người
còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo
đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn
được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc
sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời
gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện
bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng
tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi
lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở
bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh
ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên
những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ
đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành
hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để
khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi
ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm
bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau
cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình
an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy
Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo.
Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là
là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn
định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ
cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh
Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành
những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô
phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở
nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các
môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được
vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức
Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ.
Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ
không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết
với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức
Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi
sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những
trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì
cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi
loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các
môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc
đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức
chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai
môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay
ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này,
Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt
mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông:
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở
thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy
máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng
không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không
thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không
rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên
ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào
đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời
xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ,
nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc
đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang
miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên
chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc
không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy
khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước
chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi
sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết
dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
4. Nỗi oan Tôma
(GM Giuse Vũ Duy Thống)
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma
khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những
không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi
trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như
Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người
ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học
dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như
người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ
không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng
đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy
Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới
đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng
với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma,
cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản
tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy
đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng
cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên
tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế
nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với
người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc
cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa,
mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa
tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố
quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến
hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu
thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào
một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải
tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy
Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt
lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin.
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung
của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm
tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị
lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào
thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết
đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất
cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại
có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của
kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường
sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà
xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có
thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực
chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không
có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin
nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm,
và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn
bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những
thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn
nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ:
“Nhưng hãy tin!”
3. Phúc cho kẻ không thấy mà tin.
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm
vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm
vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho
Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của
mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống
cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là
sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước.
Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng
ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa
với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm
tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan
báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy
còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống
riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình
không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến
một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy,
Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm.
Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe
trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng
cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình
không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu
tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng
lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được
lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma
là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền
phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những
tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin
được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
5. Chúng tôi đã thấy Chúa
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên
làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ. Việc làm
quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông. Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ
hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u. Ngài chúc cho họ bình an ba lần
(c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân
xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các môn đệ
vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: “Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn
có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục
sinh. Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và
cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn
từ chối tin vào lời chứng của các bạn: “Chúng tôi đã thấy Chúa.” Nhưng ông lại
rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu tôi không thấy... nếu tôi không xỏ
ngón tay... nếu tôi không thọc bàn tay... tôi sẽ chẳng tin đâu.” Ông có thái độ
như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một
ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến.
Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả
mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những
người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi
“thấy và chạm đến” những thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau. Nếu
“thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”, thì đòi hỏi trên thật là chính
đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy
và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật. Chúng ta cần sống như người đang
thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên khỏi
cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bỗng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta
thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được
rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được
rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Gợi ý chia sẻ
1. Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin
đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc
đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
2. Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng
niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc
Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt
qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt
qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt
qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt
qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt
qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt
qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm
vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước
gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin
tưởng và niềm vui.
Ước
gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
6. Vui mừng vì thấy Chúa
(Chúa
Nhật Lòng Thương Xót Chúa)
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy niệm
"Chúng tôi đã được thấy Chúa" Đó là tiếng
reo vui ngây ngất của các môn đệ. Thầy Giêsu, người đã bị đóng đinh, chết và
chôn cất, nay bất ngờ hiện đến, đứng giữa họ thật gần gũi.
Động từ "thấy" được nhắc đến 6 lần trong
bài Tin Mừng này. Thấy Thầy vẫn như xưa, với những dấu đinh và vết đâm. Nhưng Thầy
cũng khác xưa, nên không dễ nhận ra ngay. Maria Macđala cứ tưởng Thầy là người
làm vườn.
Để thấy được Chúa phục sinh, cần có đức tin. Ai tin mới
thấy, và thấy để rồi tin hơn. "Phúc cho ai không thấy mà tin"
Chúng ta vẫn tin bao điều mình không thấy. Các bạn trẻ
vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của
nhau, dù chẳng ai thấy rõ hết lòng dạ con người.
Tin không phải là một hành vi mù quáng, phi lý. Tin
chẳng hề làm hạ giá con người. Trái lại, chỉ con người mới biết tin và dám tin.
Nhờ tin, tôi không còn bị giam trong thế giới chật hẹp
của cân đo đong đếm, của vật chất khả giác, nhưng được đưa vào một thế giới
phong phú hơn nhiều: thế giới của những ngôi vị tự do, của chính Thiên Chúa.
Tin là chấp nhận bấp bênh, là có thể bị lừa. Nhưng nếu
không tin thì không thể sống được.
Vấn đề là tôi phải biết tôi đã tin vào ai. Khủng hoảng
lớn nhất là khủng hoảng niềm tin: niềm tin vào Thiên Chúa và niềm tin vào con
người. Cả hai niềm tin nâng đỡ nhau và cho tôi hạnh phúc.
Ông Tôma không tin vào lời chứng của các bạn, nên ông
chậm tin vào việc Chúa phục sinh. Khi Chúa giúp ông lấy lại niềm tin vào Chúa, ông
sẽ gắn bó hơn nhiều với cả tập thể.
Chúng ta là những kẻ không thấy mà tin. Không thấy bằng
mắt thường, nhưng vẫn thấy bằng con mắt đức tin.
Tin là một cách thấy nghiêm túc. Người tin là người
thấy bằng trái tim. Họ thấy được Đấng Vô Hình rõ hơn cả cái hữu hình. Kitô hữu
là người tin Chúa, nên cũng là người thấy Chúa. Thấy Thiên Chúa hiện diện như
người Cha nhân từ. Thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người trên trái đất, sống
chết chỉ vì say mê Cha và say mê con người và đã sống lại để cho cuộc đời một ý
nghĩa mới.
Thấy mọi người là con cái Cha và là anh em của nhau. Dù
những điều chúng ta tin thật là mầu nhiệm, nhưng đó không phải là chuyện mơ hồ,
viễn vông.
Thế giới hôm nay chỉ tin vào những người đã thấy. Ước
gì chúng ta dám mạnh dạn tin Chúa hơn, để có thể thấy Chúa tỏ tường hơn và giúp
người khác thấy điều mình đã thấy.
Gợi ý chia sẻ
· Nhiều khi chúng ta không thấy Chúa chỉ vì chúng ta không dám
liều lĩnh tin vào Ngài. Có khi nào bạn gặp được Chúa, vì đã dám quên mình để sống
cho tha nhân không?
· Có khi nào bạn gặp khủng hoảng đức tin chưa (mất lòng tin
vào Thiên Chúa và vào con người)? Đâu là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng? Đâu
là cách bạn giải quyết?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ
cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ
hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa
cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt
đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
7. Hãy nhìn xem
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả
của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa. Khi
Đức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những
vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói
lên một điều quan trọng:
- Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
- Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù
điều đó chẳng đẹp gì. Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem. Những cái sẹo sẽ
ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại,
đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh
hoàng và cái chết nhục nhã. Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của
mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã
lành. Có những vết thương tưởng chẳng thể
nào thành sẹo. Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương. Các
vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó. Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những
dấu đinh. Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại. Tình
yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện
đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến
tri ân. Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới
của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và
chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của
ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy
Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin. Có khi phải tập nhìn lại
những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục
sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
"Phúc cho những ai
không thấy mà tin", và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi ý chia sẻ
· Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng
cho các môn đệ những món quà nào?
· Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông
Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma!
Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của
bạn không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn
vui tươi, dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với
chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng như
con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết
đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong
khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để
dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
8. “Tôi nhận ra bạn…”
(Maurice Brouard)
Bối cảnh. Tường thuật này đến sau việc
viếng mồ và việc Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, việc Tôma tuyên xưng đức
tin mạnh nhất trong Tin Mừng, đưa chúng ta trở về lời tựa của thánh Gioan,
tuyên bố thần tính của Chúa Giêsu.
Một việc nhìn nhận.
Hôm đó, người ta đang nghĩ đến một việc gì khác. Bỗng
chốc có ai đó xuất hiện, “một người quen biết” mà người ta tuyệt đối không thể
nhận ra được; sau một lúc do dự, nghi ngờ, người ta đã phá vỡ được khối băng:
“Càng nhìn bạn, bạn càng làm tôi nhớ đến ai đó mà tôi đã gặp, tôi đã trông thấy
bạn ở đâu đó rồi… Tôi quen biết bạn nhưng không thể nào nhớ ra tên bạn…”. Dần dần,
trong ý thức hiện ra kỷ niệm này, hoàn cảnh kia… Rồi bỗng chốc niềm xác tín
“tôi nhận ra bạn rồi… tôi đã gặp bạn tại…”. Ai lại đã chẳng có một kinh nghiệm
như thế, gần giống với kinh nghiệm hoàn toàn độc nhất vô nhị của các Tông đồ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ.
1. Chúa Giêsu có sáng kiến.
Chúa Giêsu không đến gặp môn đệ vì các ông đã có hẹn
với Ngài. Các ông chẳng còn chờ đợi gì nơi Đấng đã chịu đóng đinh thập giá nữa.
Không một người Do Thái nào, dù say mê gắn bó với Chúa Giêsu, đã nhận ra Ngài
là Đấng Mêsia. Và giờ này đây, “Ngài đến và đứng ở giữa họ”. Chính Ngài đã có
sáng kiến đến gặp gỡ họ.
Chúng ta có thể nào được kinh nghiệm này của các Tông
đồ không? Có và không. Kinh nghiệm của các ngài về những lần Chúa hiện ra quả
là độc nhất vô song và kinh nghiệm đó chính là nền tảng cho đức tin của chúng
ta. Vả lại, cũng như các ngài, chúng ta gặp Chúa Kitô trong đức tin: chúng ta cảm
thấy mối liên lạc sống động với Chúa như với một người bạn, sự hiện diện của
Ngài vừa bao quát vừa làm chúng ta phấn khởi. Ngài đã hứa với chúng ta rằng:
“Ai yêu mến Thầy… thì Cha Thầy và Thầy, chúng ta sẽ đến lưu lại nơi người ấy”.
2. Họ nhận ra Ngài.
Nhờ lời chào của Ngài “Bình an cho các con!” và việc
Ngài cho xem tay và cạnh sườn của Ngài, các môn đệ nhận ra Đấng đã chịu đóng
đinh thập giá ngày thứ sáu tuần thánh. Tôma nghi ngờ trước khi có được một đức
tin đầy xúc động và hăng say.
3. Họ được sai đi thi hành sứ vụ.
Chúa Giêsu không hiện ra để cho người ta chiêm ngắm
Ngài, nhưng để sai họ đi tiếp tay với Ngài mà loan báo Tin Mừng: “Cũng như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Kinh nghiệm của chúng ta.
1. Cũng như Đấng Phục Sinh đã có sáng kiến hiện ra với các tông
đồ, cũng vậy, chính Ngài đến gặp gỡ chúng ta, Ngài đến bất ngờ trong cuộc sống
chúng ta. Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, Đấng chiến thắng những mối
nghi ngờ của chúng ta.
2. Ngài cho ta nhận ra được Ngài nhờ sự bằng an của Ngài, nhờ lời
Ngài nói trong nội tâm ta. Ngài nói: “Chính Thầy đây”. Tôi gặp gỡ Ngài trong Lời
của Ngài đang hiện tại hóa việc rao giảng của Ngài khi xưa và trong Thánh Thể,
hiện tại hóa hy tế của Ngài.
3. Một khi chính bản thân tôi đã gặp Ngài, tôi có thể mang Lời
Ngài đến cho anh em tôi, tôi có thể phục vụ thế giới bằng hành động.
Câu hỏi.
Tôi có chỉ bằng lòng đọc Tin Mừng, chia sẻ, lắng nghe
Tin Mừng, cử hành Thánh lễ mà không làm gì hơn nữa chăng? Nếu đúng vậy, thì đó là
tránh né: khi tôi không thao thức làm cho Chúa Giêsu hiện diện trên thế giới
thì tôi đã không chu toàn sứ vụ mà tôi đã được trao phó.
Lời Chúa và Thánh Thể.
Như thánh Tôma, chúng ta hết thảy đều ước mong kiểm
chứng cách khả giác sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô Phục Sinh trong Thánh Thể.
Câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn có giá trị: “Phúc thay những kẻ không
thấy mà tin”.
9. Đức tin là một sự tăng trưởng
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Ký sự thuật lại lần xuất hiện thứ hai của Chúa tại
phòng Tiệc ly, trong lúc có một môn đệ Tôma là người bản tính cứng tin. Ký sự
đáng cho ta chú ý về hai điểm được nhấn mạnh. Trước hết là thực tại hữu thể
trong sự Chúa sống lại, dù người ta đưa ra bất kỳ lý thuyết phỏng đoán về cơ thể
hiển vinh của Chúa. Tiếp đến là tầm quan trọng và ưu thế của đức tin.
Trước khi nhấn mạnh vấn đề đức tin, chúng ta ghi sơ
qua rằng rất có thể bài tường thuật muốn trả lời hai ý kiến phản kháng:
a/ Chúa Phục Sinh không phải
làmột bóng ma, cũng chẳng phải là một ảo ảnh. Chúa phô bày những dấu vết về nhân dạng –về thực tại
hữu thể của Người: đó là những thương tích của một người đóng đinh trên thập
giá, Chúa cho Tôma tra tay vào những vết thương đó.
b/ Truyền thuyết mà người
Do Thái tưởng tượng về việc thi hài Chúa bị mấy môn đệ lấy đi mất, là một chuyện
dựng đứng,
bởi lẽ một số đông môn đệ đã thấy Chúa, nhận đúng Chúa bằng xương bằng thịt.
Giả thuyết này, giả thuyết nọ cốt ý giải thích cái thực
tại hữu thể, nhưng không thay đổi được gì trong việc kiểm chứng một sự kiện.
Đối với chúng ta, vấn đề hấp dẫn nhất liên quan đến đức
tin:
1) Trước đây, Chúa đã phán: Các ngươi tin vào Thiên Chúa, vậy
hãy tin vào Ta (Ga 14,1). Đáp lại lời đó của Thày, vang lên tiếng hô của Tôma: Lạy
Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi. Khoảng giữa Lời Chúa và tiếng kêu kỳ diệu của
Tôma, một quá trình dài đã được thực hiện. Có thể nói rằng một trong những mạch
văn chứa đựng tính chất bi kịch trong toàn bộ Phúc Âm của thánh Gioan biểu lộ
trong bước tiến chật vật từ cứng tin vươn tới đức tin. Người Do Thái sau này sẽ
đứng tại chỗ với lòng cứng tin. Đức tin chỉ được vươn tới sau khi vượt thắng
bao khó khăn trở ngại. Tôma thuộc hạng người ưa phản kháng, khó thuyết phục. Ta
nhớ lại, ông đã từng xem việc Chúa đi thăm mộ Lagiarô như một việc liều lĩnh
(Ga 11,16). Ông đã dám nói với Chúa rằng ông không biết cuộc phiêu lưu của Người
rồi đây sẽ kết thúc ở đâu (Ga 14,5). Vậy mà chính ông đã tuyên xưng đức tin bằng
một câu tuyệt vời nhất trong khắp Tân Ước. Đây là một kết quả cho thấy cùng một
lúc lòng rộng rãi Chúa khi Người ban ơn đức tin, và lời đáp đơn sơ của một tâm
hồn khó tính nhưng ngay thẳng.
Người ta sẽ nhận xét: Tôma dễ có được niềm tin vì may
mắn được thấy Chúa. Phần chúng ta, chúng ta nhận định rằng các môn đệ khác cũng
may mắn như Tôma. Tuy nhiên đã có một khoảnh khắc các ông nhận ra Chúa Giêsu là
Thiên Chúa nhiều hơn là một người. Niềm tin của ông nằm trong quá trình các ông
thừa nhận Đức Giêsu Thiên Chúa.
Chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta vượt
lên trên những gì chúng ta biết về con người Giêsu lịch sử, để vươn tới niềm
tin vào Đức Giêsu Thiên Chúa.
2) Đức tin là một sự “trở nên” liên tục, một sự tiến tới
không ngừng. Không bao giờ người ta đạt tới hoàn hảo trong đức tin vào Đức Giêsu,
Chúa chúng ta và là Thiên Chúa chúng ta. Một trong những bản dịch có thẩm quyền
nhất về câu 27, viết: Ngươi đừng trở nên cứng tin, mà là người thành tín. Cứng
tin hay thành tín không phải là trạng thái bất động của nội tâm. Từ chối không
tin, là khiến cho đức tin càng thêm khó. Ngược lại, chấp nhận tin và làm cho đức
tin càng dễ được chấp nhận và sống động. Người ta tiến hóa trong đức tin. Người
ta trở nên cứng tin hơn hoặc thành tín hơn.
Sự kiện này có một hệ quả. Đức tin sống động thiết lập
trong con người một sự tăng trưởng thiêng liêng. Sau một thời kỳ tăng trưởng,
cơ thể bị hao mòn dần rồi chết. Đức tin là một thực tại thiêng liêng lớn lên và
tăng trưởng theo mức độ chúng ta muốn sống trong đức tin. Đức tin không hao
mòn, nhưng phát triển và nảy nở không ngừng. Tại sao? Vì lẽ đức tin nối chúng
ta vào Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch vô tận của sự sống. Tuy nhiên chúng
ta có trở nên mỗi ngày một thành tín hơn hay không là tùy thuộc lòng ước muốn,
thái độ ngay thẳng thực tiễn và cung cách chúng ta nghênh tiếp đức tin.
10. Củng cố đức tin.
Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa
nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ
hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ
hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói
lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục
Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.
Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại
việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Tôma, và trong lần
hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: "Bình an cho các
con". Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ
được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền
năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được
trong giai đoạn này - trong phần thứ nhất của đoạn Phúc Âm hôm nay - đã tin phần
nào và đã chia sẻ cho Tôma: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Tôma
không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ
hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Tôma đã gây chia rẽ hay làm yếu
kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia
rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui
để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn
của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện
diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng
đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui của cộng đoàn
chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa
Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Ðó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất
cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Ðó
là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã thay thế cho sự u
buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này
luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ
thể, như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và cộng đoàn của
chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải qua những thử
thách, những trở ngại.
Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Tôma, thái độ của
Tôma, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng
đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay
thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó
cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết
điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao
ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Tôma để biến đổi ông, và Tôma đã
tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa
Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó
không nên thách thức như Tôma nữa: "Phúc cho những ai không thấy mà
tin".
Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của
cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng
ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm
vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa.
Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh
cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế
để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất
với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải:
"Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì
trên trời cũng cầm lại".
Không có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi
và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng phương thế siêu
nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta
biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Ðó là sự tha thứ bí tích, và đó
cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa
để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự hiệp nhất cộng
đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh
Chúa đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi người chúng ta cần
hành động như Tôma, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì
không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể khiêm tốn
tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy
Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Ðấng Cứu Ðộ của con." Cần phải canh
tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để chúng
ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi
lúc.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và
củng cố đức tin.
11. Dấu chứng Phục Sinh
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có
tin”.
Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực
nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được mới tin.
Ngày 23 thánh 9 năm 1968,
cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại
Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân
và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục
Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp
thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ
cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ ràng
ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên thập
giá, những vết thương làm cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ
ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài được
bao lại trong đôi gang tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người
vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên thần,
nhưng người có mặt cảm thấy bình an.
Với một số người, câu chuyện
của cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây
là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn người
thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng
ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng
minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ
thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.
Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi
khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động
hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong
lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc biệt là cha
Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc
khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.
Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin
Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ.
Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần
hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã
ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin.
Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của
Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ
bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xẩy ra theo lệnh
truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những
thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa:
“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của
cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt
ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn
Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa Phục Sinh
không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính dấu đinh. Nếu chính
Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng
của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn
dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh,
thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết
thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với
Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục
Sinh một cách sống động nhất. Từ hơn 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sự là biểu
hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra
Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự
là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị
đánh đập sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá. Ngày nay
Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong những
người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói
khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân
loại.
Nhưng thưa anh chị em,
Giáo hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói
riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ
bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu
đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại
với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà
chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như
ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả
giác mới chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật
của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ
không nhìn thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi
tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin
được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của
những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho
tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn
Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa
Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một, chuyện cần
với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo
khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu
nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên “số
những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (X. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó
chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm
những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Đạo của anh là đạo
tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu
của anh đi!
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích
tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống…
để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra
trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng
vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
12. Niềm tin Chúa Phục Sinh
(Noel Quesson)
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và không đặt tay
vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma quỷ muốn cám dỗ
Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai phong đến bảo
Thánh nhân:
- Hỡi Martinô, Cha cám ơn con
đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha mong từ nay con luôn ở
bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô chăm chú nhìn vào
ông vua và hỏi:
- Nhưng thưa ông, ông là ai vậy?
Ông vua đáp:
- Ta là Đấng Kitô đây mà!
Martinô lại hỏi:
- Vậy thì những vết thương bị
đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
- Ta từ vinh quang trên trời
xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô nói:
- Tôi không muốn nhìn Đức
Kitô không thương tích.
Vua quỷ liền biến mất.
Đức Kitô khi đã Phục sinh vẫn giữ những thương tích của
cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa thường cho các môn đệ xem những
thương tích này để họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại cái chết với dấu tích
yêu thương trọng đại của Chúa đối với họ.
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã hiện ra với
các Môn đệ trong những buổi họp mặt thường lệ. Các tín hữu, bắt đầu có buổi họp
hàng tuần. Lễ hội đã chuyển từ ngày Sabat sang ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại.
Niềm tin và phương thức thờ tự đã chuyển từ Cựu ước sang Tân ước, từ Do thái
giáo sang Kitô giáo. Mỗi Chúa nhật khi chúng ta họp nhau để phụng thờ Chúa đó
là một lễ Phục sinh, và Chúa ở giữa các tín hữu Người. Cho dù chúng ta khoá kín
cửa, cho dù tâm hồn ta còn ngổn ngang nhiều trở ngại, nhưng khi chúng a họp
nhau lại vì Danh Chúa, thì Chúa có mặt với chúng ta.
Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa xuất hiện sau
khi người sống lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú trọng đặc biệt tới Tôma. Tông
đồ Tôma là người nhiệt tình và thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Ông đã mạnh dạn biểu
lộ nỗi nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại. Khi hiện ra lần sau, Chúa đã bảo
ông Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”.
Có lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan này. Chúa cho ta biết dù Người không
có mặt, Người vẫn nghe mọi lời nói, vẫn thấy mọi tâm tình, mọi suy tư của chúng
ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng các con
mọi ngày cho đến tận thế” cho dù chúng ta không thấy Chúa.
Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin, vẫn thi hành lời
Chúa, vẫn trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa trao, đó là căn bản cuộc sống và của
niềm tin. Nhờ đó chúng ta đáng lãnh phần thưởng như lời Chúa: “Phúc cho ai
không thấy mà tin”.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con mỗi khi
chúng con ngắm nhìn những thương tích nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng con
xin tạ ơn Ngài.
13. Niềm tin
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái
độ của Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì
là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều
an ủi và khích lệ:
- Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu
triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy
Ngài, chưa một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe Ngài giảng,
chưa một lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng,
yêu mến và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
- Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống
cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của
con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
- Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ
sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện
lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm về trước, các
tiên tri đã loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định một
cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc Ngài đã
làm. Qua đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy
tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện vọng
riêng tư của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
- Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không
lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều
người trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng
đắn, chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những
chân lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn
sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục
thường là những chướng ngại vật cản ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô
chết bốn ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến
đã có phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
- Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực
tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như thế,
người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông ta là
một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì
cũng có những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của tác dụng ơn Chúa
trong tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước và làm cho ơn
Chúa trở nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
- Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn
chia thành hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng vào Chúa và giới
tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy
đã có những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới tuyến nào? Hãy
tuyên xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
14. Lòng thương xót
Trong cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”,
“Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”, của Ron Lee Davis, kể
lại câu chuyện về một linh mục người Phi Luật Tân như sau:
Vị linh mục là một người rất
yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn đã phạm nhiều
năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng vẫn không cảm thấy bình an vì chưa
cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài có một người phụ
nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa và tuyên bố là được ơn biết những điều
Chúa Giêsu muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không tin điều này. Để thử
thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu, tôi muốn hỏi Ngài
xem tội của tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện là tội gì”. Người
phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau đó, vị linh mục
hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa?” Bà trả lời, “Rồi”,
“Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì trong chủng viện không?” ngài hỏi. “Có
chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một điều rất thú vị
mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm tội gì,
Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa!”
Thật vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới
các việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông đồ ở vườn Giệtsimani,
sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả! Đây là điều an ủi lớn cho chúng
ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ
cho nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời
cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì
Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày 13.5.1881, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang nằm
trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã bắn tôi, và
tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày 27.12.1983, ngài đã đến nhà tù
thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara Reynolds trước
đây là một ký giả của tờ nhật báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng
tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà gặp lại người
đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau:
“Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ. Một
cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ xin
tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh mắt trống rỗng và chán
chường, rồi nói, “Tôi như thế đó!” Do vậy tôi có thể làm gì được? Bắn ông ta hả?
Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao
giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi bỏ đi, và
không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà Reynolds kể rằng sau nhiều
năm đi đến các nhà phân tích tâm lý học, sự tha thứ vẫn là phương thuốc trị liệu
tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải chỉ vì ích lợi linh hồn của
người đã làm điều sai trái cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh thần của
chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ!
Cô Corrie Ten Boom đã diễn
tả sự tha thứ giống như buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ nhìn
thấy một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa? Để nghe được tiếng
chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu
vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục kéo,
chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi
sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy!
Khi bạn làm như thế, tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục
vang, vì sự chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn buông tay ra khỏi
sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy,
khi bạn quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ xưa kia có lẽ vẫn còn
tiếp tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ,
cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại và dần dần im bặt. Sự tha
thứ không phải là một cảm giác, nhưng là một hành động. Đó là buông tay ra khỏi
sợi dây oán thù.
15. Tin
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người
làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều
thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau
phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng
cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.Trước hết tin là phải chấp nhận có một
thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa
học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào nh ững gì thấy được và hợp lý mà
thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng
ba vòng cũng tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn
Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm
và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin. Tiếp đến, tin vào
Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính
toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày mai sẽ
ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa
cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng
thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết. Cũng như
Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng
bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là
dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao.
Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng
tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại
sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng
ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng
ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của
cải, mạng sống. Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa.
Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang
có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta
phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu
không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì
và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những
người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục
sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn
đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và
bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này. Sống đức tin và đón nhận niềm
vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn
đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại
với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa
đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
16. Sống đức tin
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể
cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu
với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống
lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng
muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được
thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để
nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi.
Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động
về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những
người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã
khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng
hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay
các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa
thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức
tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta,
có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy
vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động
và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những
giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của
Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy,
Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông
run sợ và phát ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. phải
chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người
ta? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn
đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn
nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh
tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người
ta bảo Thầy là ai?” Thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con
Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin:
“Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều
đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ
hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng
khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”,
nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ
Thầy mà đi không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của
Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là
sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không?” Martha trả lời: “Con tin
Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một
tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận
biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một
người thì người nhận biết. Đức tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia
chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta đã yêu
thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình
nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình
Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi,
chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống
niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy
trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào
sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù
không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của
người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ
trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho
đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không?
Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được
thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả
khi gặp gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết
cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người.
Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại,
quên mình, tha thứ với mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu,
vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu
không?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị
khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần
đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải
được thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên
tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và
thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của
chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là
môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống
của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin
cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
17. Mọi sự đều có thể
Có câu chuyện kể rằng có một
người muốn xin gia nhập trong một đoàn xiếc. Anh nói: “Tôi sẽ biểu diễn bằng
cách trèo lên bậc cao khoảng 50 mét và nhảy xuống một đống mùn cưa”. Chủ đoàn
xiếc nói, “Nghe anh nói thật hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn
ra sao đã”. Sau đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin việc bắt đầu
biểu diễn. Khi anh ta từ trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày
méo mó thì ông chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, “Thật là tuyệt. Tôi nhận anh
vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ trả anh 250 Đô La một tuần”. Anh ta lắc đầu nói,
“Cám ơn, nhưng tôi không muốn”. Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ 250 tới 500
và 1000 đô la một tuần. Thế nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ không hiểu nổi
nên nói, “Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!” Anh ta trả lời, “Tôi đau lắm... Tôi
không bao giờ dám nữa đâu!” Anh thanh niên này có ước vọng tốt nhưng khi gặp điều
khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho một tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ thân yêu của
Chúa Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì họ sợ rằng những người giết
Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra
với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh Gioan đã nói: “Các môn đệ đã
vui mừng khi nhìn thấy Ngài”. Nhưng sau đó khi họ nói với Tôma (Tôma là người
không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là “chúng tôi đã nhìn thấy Chúa”, ông trả
lời: “Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và những lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi
vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không bao giờ
tin điều ấy” (Ga 20,25). Tám ngày sau đó, Đức Kitô Phục Sinh lại hiện ra với
các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở với họ và chính mắt ông đã nhìn
thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “Con tin vì đã nhìn thấy Thầy, nhưng phúc cho những
ai không thấy mà tin” (Ga 20,28-29).
Tin luôn đòi có sự dám liều, có sự dấn thân. Khi niềm tin của ta là vô
điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự việc xảy
ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó quay lại với Chúa khi có
quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng ta biết
là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được. Đó là điều kiện để đi
theo một người mà người đó lại là một người mà chúng ta luôn luôn không thể biết
và làm chúng ta ngạc nhiên.
“Mọi sự đều có thể cho những kẻ tin”, chính Chúa
Giêsu đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng kiến những phép lạ Người
làm. Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới chân Chúa cách vô điều kiện
như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể xảy ra cho những ai sẵn sàng
chấp nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng Phục Sinh của Chúa.
Trong những giới hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn
trở nên con người và nhận ra toàn diện bản chất con người của mình như Chúa muốn,
thì xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có thể xảy ra được nếu như bạn không làm một
sự thay đổi và “trở nên như trẻ nhỏ”. Nhưng khi bạn làm sự thay đổi đó thì bạn
trở nên con người vĩ đại. Khi bạn quyết định thay đổi con người mình thì mọi sự
đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn
cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đã làm cho chúng ta qua đời sống, sự
chết và phục sinh của Ngài thì chúng ta phải trở về với Thiên Chúa là Cha chúng
ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ
hoàn toàn phó thác vô điều kiện trong tay cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể cho những ai mở rộng đôi mắt và
thưa cùng Chúa, “Xin hãy làm cho con được ngạc nhiên!”
18. Đức tin
Trong sinh hoạt bình thường,
đôi khi chúng ta có dịp gửi đến cho nhau những quà tặng. Chẳng hạn như ngày cưới,
ngày sinh nhật… Thế nhưng, có những quà tặng chẳng mang lại một ý nghĩa nào cả,
hay ít nữa một sự tiện dụng nào đó. Người tặng cũng chỉ tặng cho xong bổn phận,
cho xong món nợ. Còn người nhận thì cũng miễn cưỡng vui vẻ lúc bấy giờ, còn sau
đó thì xếp quà tặng vào một xó góc tăm tối, bụi bậm và có lẽ chẳng bao giờ ngó
ngàng tới.
Phải chăng đó cũng chính là hình ảnh đức tin của nhiều
người trong chúng ta. Một thứ quà tặng mà chúng ta không phải vất vả mua sắm. Một
thứ đơn thuốc đã được ghi sẵn: phải làm cái này và phải tránh cái kia. Một thứ
đồ vật đã lỗi thời, bị phế thải và không còn dùng vào việc chi, thoảng hoặc họ
mới ngó ngàng tới, như người ta vốn mỉa mai diễn tả:
- Một năm họ tới nhà thờ ba lần để rửa tội, để kết hôn và để
vĩnh viễn ra đi. Một tuần nếu có đi lễ ngày Chúa nhật, thì cũng chỉ đứng tận
đàng xa, tít ngoài sân cho qua lần chiếu lệ. Trong suốt thời gian còn lại, đức
tin được xếp vào một xó góc tăm tối, hay một ngăn tủ khóa kín.
Với chúng ta thì khác, đức tin không phải là một quà
tặng bất đắc dĩ, không phải là những hình thức bề ngoài, cũng không phải là một
cái gì đã chết. Nhưng đức tin chính là sự sống. Bởi đó thánh Gioan đã viết:
- Sự chiến thắng trên thế gian là đức tin của chúng ta.
Kinh nghiệm trong những trại giam cho chúng ta thấy:
những người có được một nền giáo dục tôn giáo vững chắc mới dễ dàng tránh được
những hành vi dã man và độc ác. Đồng thời dựa vào những bản thống kê, thì số
người Công giáo tự tử chỉ là một con số nhỏ nhoi khiêm tốn. Nếu đức tin không
phải là sức mạnh thì làm sao người Công giáo có đủ khả năng chịu đựng.
Đức tin chính là sự sống. Thân xác của chúng ta, chẳng
hạn, là một vật sống động. Ở đó có máu huyết lưu thông, để không ngừng phát triển,
không ngừng lớn lên và đổi mới.
Ngày rửa tội, đức tin được gieo trồng trong tâm hồn
chúng ta, nó cần phải nẩy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái. Điều đó có nghĩa
là Đức Kitô sống trong tôi và tôi sống trong Đức Kitô. Toàn thể con người tôi
được ơn sủng thấm nhập, được gìn giữ trong tình yêu của Ngài. Được trở nên cao
cả với địa vị là con cái Ngài. Được vượt trên trần thế để tiến vào quê hương nước
trời. Như một mầm non phải được chăm sóc thì mới có thể phát triển, bằng không
nó sẽ bị thui chột. Đức tin của chúng ta cũng vậy. Nó phải được chăm sóc, được nuôi
dưỡng bằng việc đọc và suy gẫm lời Chúa cũng như các sách đạo đức, nhờ
đó tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho hành động.
Tiếp đến bằng việc cầu nguyện. Chúng ta sẽ
không thể nào có được một đức tin trưởng thành mà không cầu nguyện. Cầu nguyện ở
đây không phải chỉ là đọc một số kinh dọn sẵn, nhưng là thực sự tâm tình và kết
hiệp với Chúa.
Nếu chúng ta chỉ sống đạo ở cái mức tối thiểu: dự lễ
một tuần một lần, xưng tội rước lễ thì một năm một lần, thì chúng ta không hy vọng
gì thắng nổi thế gian. Cứ như thế, đức tin dần dần thui chột để rồi chỉ còn lại
một bộ xương cách trí, một tín đồ hữu danh vô thực mà thôi. Và tới một lúc nào
đó, chúng ta sẽ dễ dàng bán Chúa vì một lợi lộc nhỏ nhoi, sẽ dễ dàng chối Chúa
chỉ vì một lý do không đâu mà thôi.
19. Cộng đoàn
Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt
của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các sách Tin Mừng và nhất là
sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:
Đó là cộng đoàn cầu nguyện. Hoàn cảnh ban đầu với những
cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Kitô, người Thầy
thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ
khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại
kỷ niệm của Thầy Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của
Thầy. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thầy để ghi
tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thầy đã làm cho lời cầu nguyện của các
ngài trở nên sống động. Và Đức Kitô Phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài
trong các buổi cầu nguyện ấy.
Đó là cộng đoàn đức tin. Các ngài quây quần sống
bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh. Niềm tin ấy rất
mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là
lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong
những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa,
trong những sinh hoạt đời thường. Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và
phục hồi đức tin. Như trường hợp của tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ
sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng
đoàn.
Đó là cộng đoàn đức ái. Đức tin chân thật sẽ dẫn đến
đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu
lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất
trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là
cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có
là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung… Trong cộng đoàn không
ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy
tiền, đem đặt dưới chân các tông đồ. Tiến ấy được phân phát cho mỗi người, tùy
theo nhu cầu”. Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những
con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng
đoàn như thế.
Đó là cộng đoàn chứng nhân. Các ngài làm chứng cho
nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung
sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn
bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Ngài” là câu nói cửa miệng của các tông đồ. Ta
được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mađalêna, của Phêrô và Gioan, của các
môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tôma. Hữu
xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan tỏa ra cả những người chung quanh.
Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh mẻ. Đời sống cầu
nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hòa. Tất cả trở thành một lời chứng hùng
hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn
hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất
danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống. Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có
những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, đã đón nhận
được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người
mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn phục
sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh tiên báo
cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
20. Tin
Các tông đồ đã đưa ra cho ông Tôma một thách đố. Họ
đã nhìn thấy Chúa. Ông Tôma có tin họ không? Như chúng ta đã biết, lúc đầu câu
trả lời của ông Tôma là không tin. Tuy nhiên, sau khi Tôma cũng được gặp Chúa
Giêsu thì ông sẵn sàng tin. Tôi nghĩ là trong hoàn cảnh phải chịu một thách đố
như vậy thì phản ứng của ông Tôma cũng là một điều bình thường.
Chúa Giêsu Phục sinh có thể hiện ra với dân chúng,
nhưng Người đã không làm như vậy. Người để cho mỗi người chúng ta, với tư cách
là những người môn đệ của Chúa, có một trách nhiệm là làm cho thế giới nhìn thấy
Chúa Giêsu Phục sinh qua chính cách mà chúng ta sống cuộc đời của mình. Có lẽ bạn
sẽ thốt lên: “Ồ, không thể được”. Nhưng điều đó thật sự có thể thực hiện được.
Nhiệm vụ này là một niềm vui cho chúng ta, nếu chúng ta tin đây là việc của
Chúa Thánh Thần và không chỉ lệ thuộc vào bản thân chúng ta mà thôi đâu. Đó là
một trách nhiệm đáng sợ nhưng đồng thời cũng là một niềm vui lớn lao cho chúng
ta. Giúp người khác tin vào Chúa Giêsu Kitô là một niềm vui mà chúng ta có thể
cảm nghiệm được trong cuộc đời. Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui giúp cho
một người có số phận phải chết được tiến đến với Thiên Chúa và lãnh nhận hồng
ân sự sống đời đời.
Chúng ta đã đồng hành với Chúa Giêsu ngang qua các
đau khổ và cái chết của Người. Giờ đây, chúng ta cảm nghiệm được niềm vui Chúa
đã Phục sinh. Chúng ta hãy nắm vững sự thật này, và từ đó rút ra một niềm vui mừng
và hạnh phúc để tăng cường sức lực hầu hăng hái thi hành sứ vụ đang chờ chúng
ta. Cuộc đời của chúng ta sẽ luôn luôn là một tổng hợp của niềm vui và nỗi buồn,
may mắn và rủi ro. Nhưng tâm hồn sẽ luôn giữ được sự bình an và cảm nghiệm được
một niềm vui tràn đầy khi biết rằng chúng ta đang cùng đi với Chúa Giêsu, nếu
chúng ta đặt trọn niềm tín thác vào Người và vững tin rằng Chúa đã sống lại từ
cõi chết. Không có gì có thể làm hại chúng ta được, nếu chúng ta xây dựng cuộc
đời mình trên lòng tin tưởng và tín thác vào Chúa Giêsu Phục sinh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp con có một niềm xác tín
mạnh mẽ vào sự sống lại của Chúa Giêsu để niềm tin đó cũng biến đổi con trở
thành một con người mới, con người phục sinh.
21. Đức tin
Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa Kitô Phục sinh hiện
ra với các tông đồ: lần thứ nhất vào chính ngày Phục sinh, lúc đó vắng mặt ông
Tôma, lần thứ hai, sau đó tám ngày, lần này có mặt ông Tôma. Mục đích Chúa hiện
ra là để minh chứng cho các môn đệ thấy chắc chắn Ngài đã sống lại thực sự. Bài
Tin Mừng này có hai câu nói của Chúa Giêsu rất đáng chú ý và suy nghĩ: Câu thứ
nhất Chúa nói với ông Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin”,
đây cũng là điều Chúa muốn nói với chúng ta, những người đang sống xa biến cố
Phục sinh cả hơn hai ngàn năm, chúng ta không thấy Chúa Kitô Phục sinh, nhưng
chúng ta vẫn tin, tin mạnh mẽ, tin vững chắc. Câu thứ hai là lời chào và cũng
là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”, đây
cũng là điều Chúa muốn ban cho chúng ta và chúng ta cũng luôn cầu xin Chúa.
Chúng ta thấy lúc đầu ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng
lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo
tưởng, không đáng tin, ông nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin”. Chúa rất nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày
rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Trước bằng chứng
quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lệnh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, đây là lần thứ
nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt, cho nên, đây là một
tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước.
Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự Tôma đã vượt qua hình dáng bên
ngoài để đi tới thực tại tiềm ẩn: mắt ông chỉ nhìn nhìn thấy con người Chúa
Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa
là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và
trở nên nguồn an ủi, phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Phúc thay những người
không thấy mà tin”. Phán câu ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta ở thế kỷ XXI này và
muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan
nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác
thánh thiện của Ngài, nhưng chúng ta tin Ngài dựa vào bằng chứng của các tông đồ,
thế giá của Kinh thánh và lời Giáo Hội giảng dạy, ai tin qua đó là có phúc.
Chúng ta có thể nói như thánh Ghêgôriô: “Ngón tay đa nghi của thánh Tôma đã trở
nên ông thầy của toàn thể thế giới, bàn tay đa nghi của thánh Tôma đã dạy cho
con người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Phục sinh của Chúa Kitô”.
Chúng ta tin chắc như thế, chúng ta sẽ là người có phúc: phúc cho chúng ta, dù
không thấy, chúng ta vẫn tin.
Đàng khác, ngay khi hiện đến với các tông đồ, cả hai
lần, lời nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em”, lời cầu chúc đó được
Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Quả
thực, các ông đã bỏ mọi sự đi theo Chúa, nhưng ngờ đâu, “công chưa thành, danh
chưa toại”, mới được 33 tuổi, vị thầy của các ông đã bị giết chết như một nhà
cách mạng thất bại, và bây giờ đang nằm yên trong mộ đá. Chúa chết, các môn đệ
“tay trắng vẫn hoàn tay trắng”. Hơn nữa, giờ đây các ông còn phải sống chui lủi
trong cảnh “sảy đàn tan nghé”, như rắn mất đầu: thấp thỏm, hoang mang, lo sợ,
các ông sợ tất cả mọi người, nên đã im hơi lặng tiếng, tụ tập nhau trong căn
phòng cửa đóng then cài. Giữa lúc đó, Chúa hiện đến và chúc bình an, còn gì quý
bằng, đang hoang mang, chán nản, sợ hãi, các ông được gặp Chúa và được Chúa ban
cho điều các ông đang cần, đó là bình an. Ơn lộc đó Chúa cũng đang muốn dành
cho chúng ta hôm nay.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều
hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có
nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng
thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an
khác với hòa bình, hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh,
không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao, cho nên có khi có hòa bình
nhưng không có bình an, nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì
khao khát bình an.
Sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây
phút lo âu: về tương lai, gia đình, con cái, tiền bạc, công ăn việc làm, sức khỏe…
những lo ấu ấy như một chất thuốc độc tác hại vào tâm hồn và cướp đi những niềm
vui trong lành, những giấc ngủ bình yên, khiến chúng ta luôn băn khoăn, khắc
khoải, cố gắng tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những lo âu, và như thế có
phải là chúng ta rất cần sự bình an không? Sự bình an đó do Chúa ban và cũng là
cố gắng của mỗi người.
Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời cho Chúa
để bản thân chúng ta tìm thấy sự bình an, đồng thời hãy cố gắng sống tốt đẹp,
chúng ta sẽ cảm thấy bình an. Đàng khác, nếu chúng ta chưa đem lại bình an cho
ai, thì chúng ta đừng cố tình làm mất bình an của họ bằng lời nói hay việc làm
lỗi bác ái của chúng ta. Xin Chúa ban bình an cho chúng ta và xin Chúa cho
chúng ta là “khí cụ bình an của Chúa” cho mọi người.
22. Bình an
Ông Tôma là một người có óc thực tế, có vẻ chậm hiểu
và chậm tin hơn các môn đệ khác. Điều đó cũng đúng và dễ hiểu thôi. Ông có đủ
lý do để nghi ngờ, vì ông chưa được thấy Chúa sống lại rõ ràng như các môn đệ
khác. Và sự kiện ông đòi chính mình phải kiểm chứng mới tin lại có lợi cho
chúng ta, và là dịp khiến Chúa Giêsu liên tưởng tới đông đảo những Kitô hữu, từ
đó cho đến ngày cánh chung, sẽ tin vào Ngài. Chúa chúc phúc cho họ, vì họ là những
người, dù không thấy tận mắt sự kiện phục sinh nhưng vẫn tin vào Ngài: “Phúc
cho những kẻ đã không thấy mà tin”. Lời Chúa Giêsu trên đây được coi là
mối phúc thứ chín trong đời mỗi Kitô hữu. Chúng ta phải cám ơn ông Tôma, chính
vì thái độ thực tế của ông mà chúng ta được thêm một lần Chúa Kitô Phục sinh hiện
ra để minh chứng Ngài đã sống lại, và ban cho chúng ta, qua ông Tôma, một mối
phúc thật khác là “phúc thật đức tin”. Một điều lý thú nữa trong bài Tin Mừng
hôm nay, đó là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các
môn đệ: “Bình an cho anh em”. Lời cầu chúc này được Chúa nói đến ba lần, đối với
các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Còn gì vui mừng và sung sướng hơn
cho họ nữa không? Họ được gặp lại một người thân yêu nhất vừa mới chết. Họ được
thấy tận mắt Thầy của họ, được nghe tận tai tiếng nói của Thầy. Thầy của họ đã
sống lại thật rồi và còn được thầy ban cho một món quà mà họ đang khao khát nhất,
đang cần nhất, đó là “bình an”. Món quà ấy Chúa cũng dành cho mỗi người chúng
ta hôm nay. Bởi vì Chúa quá hiểu tâm lý con người nhân loại. Chúa quá hiểu cục
diện thế giới này, ít khi có bình an, lúc nào cũng đầy những bất hòa, bất thuận,
chia rẽ, xô xát, đố kỵ, ích kỷ, nghi ngờ, giả dối… nên ai cũng muốn xin được
hai chữ “bình an”. Có hiểu như thế chúng ta mới thấy lời chúc bình an của Chúa
thật ý nghĩa và là món quà quý giá Chúa dành cho các môn đệ xưa kia và mỗi người
chúng ta hôm nay.
Anh chị em hãy hồi tưởng lại cuộc đời mình xem: có phải
anh chị em rất cần sự bình an không? Có lần người ta hỏi ông Đan-tê, một đại thi
hào của nước Ý rằng: “ Điều ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc đời là
gì?”. Bậc vĩ nhân đã trả lời rằng: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai
cũng tìm kiếm, đó là sự bình an”. Chúng ta cần và chúng ta tìm kiếm sự bình an,
là bởi vì cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng đầy những lo âu và phức tạp về bản
thân mình, về gia đình mình và xã hội chung quanh… luôn gây cho chúng ta những
bất an. Có khi chúng ta muốn an ổn mà không được, vì cây muốn lặng mà gió chẳng
dừng. Không cần nói đâu xa, ngay trong gia đình chúng ta cũng đầy những ngột ngạt,
lườm nguýt, hành tỏi, xích mích, tranh giành, lừa dối nhau, nghi ngờ nhau… khi
thì chiến tranh lạnh khi thì chiến tranh nóng, mạnh ai nấy sống. Thậm chí có những
người chỉ muốn sống ở những nơi khác mà không muốn về nhà mình. Chính vì thế mỗi
người chúng ta, mỗi người trong gia đình, cần suy nghĩ xem: tại sao mình không
có bình an, lý do là bởi ai, bởi đâu? Và chính mình có là nguyên nhân gây bất
an cho gia đình, cho những người chung quanh không? Người ta nói: “Trâu bò húc
nhau, ruồi muỗi chết oan”, “hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, nghĩa
là chúng ta là những người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, oán thù nhau, thì ảnh hưởng
tai hại không nhỏ cho chính những con cái trong nhà, cho anh hàng xóm chung
quanh và xã hội. Xin mọi người hãy suy nghĩ hai chữ “bình an” hôm nay để chính
mình sống bình an và giúp người khác cùng sống bình an. Tất cả chúng ta, ai ai
cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Vì thế, Chúa luôn
luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi
khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa cũng như Giáo hội cầu chúc chúng
ta: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục bảo chúng ta: “Anh chị
em hãy chúc bình an cho nhau”. Vâng, đúng vậy, có bình an của Chúa ở nơi mình,
chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau. Bình an là một hồng ân Chúa ban và
cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an
cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, nghĩa là góp phần tạo nên
bình an cho mọi người và cho toàn xã hội. Xin nhớ rằng: nếu chúng ta không chia
sẻ bình an thì thôi nhưng đừng bao giờ làm mất bình an của người khác.
23. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1.
Việc Tôma đòi hỏi những chứng cứ để tin như thế có gì quá đáng không? Có gì
tích cực, đáng khen trong sự đòi hỏi đó không? Để tin cho vững chắc đến mức có
thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy, việc đòi hỏi những chứng cứ chắc chắn có
cần thiết không?
2.
Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu để được cứu rỗi. Nhưng đức
tin ấy có cần phải có chất lượng không? hay chỉ cần một đức tin xoàng xoàng là
đủ? Đức tin có chất lượng là gì?
3.
Một người tuyên xưng đức tin mạnh mẽ có chắc chắn là một người có đức tin mạnh
mẽ không? Tuyên xưng thật mạnh mẽ nhưng lòng thì không tin được như vậy, đó có
phải phần nào là giả dối không?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ của Tôma: đòi hỏi bằng chứng mới chịu tin
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến thái độ của tông đồ
Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh trong tay Đức Giêsu, xỏ ngón tay vào lỗ
đinh ấy rồi đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, thì ông mới tin. Lý trí thiên về thực
nghiệm và có chiều hướng khoa học của ông đòi buộc ông phải làm như thế, nếu
không, ông không thể chấp nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại, vì việc sống lại quả
hết sức khó tin. Nhưng rất có thể là sau khi được thỏa mãn những đòi hỏi ấy,
Tôma xác tín việc Chúa sống lại hơn nhiều tông đồ khác. Người ta vẫn nói: «đại
nghi thì đại ngộ» (nghi ngờ lớn thì giác ngộ lớn)! Các tông đồ khác - với bản
tính đơn sơ, dễ tin hơn - không cảm thấy phải có những bằng chứng rõ ràng như
Tôma mới tin được. Các ông chỉ dựa vào một số những biến cố thấy được nơi Thầy
mình trước đây, như cuộc hiển dung trên núi Tabo, khả năng làm phép lạ như hóa
bánh ra nhiều, làm sóng gió ngoài biển phải im lặng, thậm chí làm được cho kẻ
chết sống lại nhiều lần, v.v... là các ông đã đủ để tin rồi.
Đòi hỏi hay không đòi hỏi bằng chứng để tin không phải
là chuyện quan trọng. Điều này tùy thuộc vào bản tính Trời cho của mỗi người.
Điều quan trọng là phải làm sao để tin cho chắc, tin cho vững, tin tới mức có
thể dám dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Có những người rất dễ tin, vì thế niềm
tin ấy không được xây dựng trên cơ sở vững chắc để có thể giúp họ dấn thân hết
mình cho điều mình tin, nên khi gặp những giông tố thử thách, nghe những lý
thuyết ngược lại, thì đức tin đâm ra bị chao đảo. Vì thông thường là: nếu dễ
tin trong trường hợp này thì cũng sẽ dễ tin trong những trường hợp khác! Hay dễ
được thì cũng dễ mất! Cũng có những người đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới chịu tin.
Có thể họ không tin nếu chưa đủ chứng cớ. Nhưng một khi đã có chứng cớ làm cơ sở
để tin, thì họ lại tin rất vững chắc tới mức độ có thể dấn thân hết mình cho niềm
tin ấy. Hạng người sau sẽ ích lợi cho Thiên Chúa, Giáo Hội và nhân loại hơn.
Cũng có thể có những người tuy dễ tin, nhưng vẫn tin vững chắc và không thay đổi
được. Điều này theo lý luận thì khá nghịch lý, nhưng vẫn có thể xảy ra, vì
trong thực tế vẫn có những điều rất nghịch lý!
Trong Kitô giáo, đức tin là một yếu tố quan trọng
hàng đầu. Tuy nhiên, tin hay không tin không quan trọng bằng chất lượng của đức
tin. Người tin hời hợt cũng là tin, và người tin một cách xác tín cũng là tin.
Nhưng giá trị của hai thứ đức tin ấy khác hẳn nhau.
2. Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng
đầu
Người Kitô hữu coi việc rỗi linh hồn, tức hạnh phúc
vĩnh cửu, là điều quan trọng nhất. Họ có thể hy sinh tất cả mọi thứ khác trên đời
cho hạnh phúc vĩnh cửu ấy, và đó chính là sự khôn ngoan căn bản của họ. Vì như
Đức Giêsu nói: «Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì ích lợi
gì?» (Lc 9,25). Nhưng muốn được sự sống đời, thì phải tin vào Thiên Chúa, vào Đức
Giêsu-Kitô, hay vào Tin Mừng của Ngài như một điều kiện không thể không có: «Ai
tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc
16,16); «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên
Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9).
3. Nhưng điều quan trọng là chất lượng của đức tin
Nhưng thế nào là tin đúng với ý nghĩa của chữ «tin»?
Nhiều người tưởng rằng mình tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, nhưng thật ra họ
chẳng tin hay chỉ tin rất ít! Chỉ cần Chúa gửi đến cho họ một vài thử thách là
họ sẽ thấy ngay họ có tin hay không, hoặc tin ở mức độ nào.
Thật vậy, trong những điều kiện bình thường không có
gì đe dọa, có biết bao người tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, rao giảng đức tin
hùng hồn không ai bằng. Thậm chí để bảo vệ đức tin, họ không ngần ngại lên tiếng
kết án những kẻ xem ra yếu đức tin hoặc tin khác với mình. Nhưng khi có thử
thách xảy tới, chẳng hạn khi tình thế đòi buộc phải lên tiếng bảo vệ đức tin, bảo
vệ Giáo Hội, bảo vệ công lý, và việc lên tiếng bảo vệ này đòi hỏi phải trả một
cái giá nào đấy, thì họ lại sẵn sàng im lặng bất động, bỏ mặc đức tin, Giáo Hội
và công lý ra sao thì ra. Hay khi đức tin đòi hỏi phải dấn thân hy sinh, chịu
thiệt thòi một cách cụ thể mà trước mắt không được bù đắp lại, lúc đó họ mới nhận
ra đức tin của họ - mà họ vẫn tưởng rất mạnh mẽ - hóa ra là thứ đức tin chỉ
tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng mà thôi!
4. Tin thật trong lòng quan trọng hơn tuyên xưng
ngoài miệng
Phải nói rằng chúng ta chú tâm vào việc tuyên xưng đức
tin hơn là sống đức tin, chúng ta quan tâm chứng tỏ đức tin bằng miệng, bằng lời
nói nhiều hơn bằng hành động. Chúng ta có khuynh hướng chọn cái dễ hơn, cái «rẻ
tiền» hơn để thực hiện, chứ không chọn cái thật sự cần thiết dù là «đắt giá»,
vì thế, đời sống đức tin và việc truyền giáo của chúng ta không đi đến kết quả
mong muốn. Theo thánh Phaolô thì «có tin thật trong lòng mới được nên công
chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ» (Rm 10,10). Chúng ta có vẻ
coi việc xưng ra ngoài miệng quan trọng hơn việc tin thật trong lòng. Có phải
chúng ta coi việc «được ơn cứu độ» quan trọng hơn việc «được nên công chính»?
Nhưng cần xét lại xem: có ai không trở nên công chính mà được ơn cứu độ nhờ
«xưng ra ngoài miệng» không? Lời ấy của thánh Phaolô đòi hỏi chúng ta phải làm
cả hai, và điều trước (tin thật trong lòng) thì quan trọng và cần thiết hơn điều
sau (xưng ra ngoài miệng)! Điều sau chỉ là hiệu quả chứng tỏ điều trước mà
thôi. Vì theo tự nhiên thì «lòng có đầy, miệng mới nói ra» (Mt 12,34; Lc 6,45).
Lòng không đầy mà ngoài miệng lại nói ra thật hùng hồn mạnh mẽ thì rất có thể
đã có phần nào giả dối trong đó!
Thật vậy, thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng
chứ không được chứng tỏ bằng hành động chỉ là đức tin giả dối, hay «đức tin chết»:
«Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Liệu người ta có thể
được cứu rỗi với thứ «đức tin chết» ấy không?
5.«Phúc thay những người không thấy mà tin!»
Quả thật, nếu thấy rồi thì đâu còn là tin nữa, mà là
thấy, biết! Như vậy, tin khác với thấy, biết. Tin chỉ có ý nghĩa khi đối tượng
tin còn mù mờ, chưa sáng tỏ, nó vừa đòi hỏi lý trí nắm được một số chứng cứ để
tin, vừa đòi hỏi ý chí chấp nhận một kết luận vượt khỏi giới hạn mà những chứng
cứ ấy chứng tỏ. Chẳng hạn bố mẹ tôi nói với tôi rằng lúc nhỏ tôi bị một chứng bệnh
rất nguy hiểm mà tôi đã thoát được. Tôi tin điều ấy, chứ không phải tôi biết
hay thấy điều ấy. Để tin điều ấy, trong tôi có tác động của lý trí và ý chí. Lý
trí tôi dựa trên những chứng cứ xác thực này:
-
bố mẹ tôi sinh ra tôi và nuôi tôi nên biết rõ điều đó.
-
bố mẹ tôi là một người chân thật, không hay nói dối
-
tôi thấy bố mẹ tôi không có lợi gì khi dối gạt tôi điều này.
Những chứng cứ ấy chưa đủ để tôi có thể kết luận chắc
chắn điều ấy. Nhưng dựa trên những chứng cứ xác đáng ấy, tôi xác định rằng điều
bố mẹ nói về chứng bệnh lúc tôi còn nhỏ ấy là sự thật. Xác định điều ấy khi
chưa hoàn toàn sáng tỏ là việc làm của ý chí tự do.
Lời của Đức Giêsu: «Phúc thay những người không thấy
mà tin!» đặc biệt áp dụng cho chúng ta hơn là cho các tông đồ. Tất cả chúng ta
chẳng ai thấy Đức Giêsu, chẳng ai thấy Ngài sống lại. Nhưng chúng ta tin điều ấy.
Niềm tin ấy được xây dựng trên những lời chứng phải trả giá bằng máu, bằng mạng
sống của các tông đồ, là những người đã sống với Đức Giêsu và đã chứng kiến
Ngài sống lại: «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều
này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. 3,15; 4,33; 10,39.42; 13,31).
Không ai lại sẵn sàng chết để làm chứng một điều gian dối chẳng đem lại lợi lộc
gì cho mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin củng cố đức tin cho con, đồng thời giúp
con luôn thành thật với niềm tin của mình. Đừng để cho con trở nên giả dối: tin
thì không mạnh, nhưng tuyên xưng ngoài miệng thì rất là mạnh.
24. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ (không có ông Tôma): 20,19-23
Chúa hiện đến (cc. 19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn
trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng
các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào
nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong
nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không
còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó
buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường:
đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người
nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà
còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an.
Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất
chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng
độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh.
Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên
con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng
họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ
hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
Sứ vụ (cc. 21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng.
Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn
nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo
dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình,
Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình
bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí
trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa
Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong
St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để
có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các
môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như
Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là
thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ
với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của
ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở
đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa
qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha…
Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra
vào “ngày của Chúa”, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng
vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi
khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ
đi khắp thế gian.
Ông Tôma: không thấy mà tin (20,24-29)
Việc ông Tôma vắng mặt cho phép người kể chuyện
đưavào cảnh tượng tiếp sau. Sự cứng lòng không tin của ông Tôma được đặc biệt
nhấn mạnh, bởi lẽ điều này được diễn tả gần như cùng một từ ngữ như trong 4,48:
“Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu”. Ông Tôma, là người
tuy đã mời gọi các bạn đồng môn cùng đi cùng chết với Chúa Giêsu (11,16), lại
chối từ cùng với các bạn đi theo Chúa trong đức tin vào Chúa Giêsu hằng sống.
Ông có hai lỗi: trước hết không tin vào lời chứng của các Tông đồ; sau nữa,
nghi ngờ Chúa Giêsu sống lại.
Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai cũng được miêu tả với
những từ ngữ như lần thứ nhất. Tuy nhiên sự cứng lòng tin của ông Tôma cho phép
thánh sử thực hiện hai mục tiêu: trước tiên việc nhấn mạnh về những dấu vết
thương tích đánh dấu sự liên tục và sự liên kết giữa Chúa Giêsu chịu đóng đinh
và Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính việc nâng cao là thập giá làm nên mặc khải tối
thượng về tình yêu của Chúa Cha và vinh quang của Chúa Con. Tiếp đến, đức tin
mà ông Tôma, kẻ không tin, tìm gặp lại, trổi vượt đức tin của các môn đệ bởi vì
ông dành cho Chúa Giêsu tước hiệu vĩ đại nhất của cả Tin Mừng: “Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con!”. Trong số tất cả các tước hiệu của Chúa Giêsu đã
được khai trình giữa chương đầu này, chúng ta đạt đến tột đỉnh mà mọi định
nghĩa giáo lý sau này đều không thể vượt qua được. Giữa “Ngôi Lời là Thiên
Chúa” ở Lời Tựa (1,1) và lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa và Thiên Chúa”, mọi
sự đều đã rõ. Quả là ngược mặc khải, kẻ làm chứng về chân lý này lại là người
không muốn tin vào lời chứng của các Tông đồ.
Hạnh phúc cuối cùng là kết luận của Tin Mừng và là sự
lặp lại chủ đề chính yếu của đối tượng: giữa thấy và tin, cảnh tượng và nghe biết,
sự kỳ lạ và lời nói, thì chính phần thứ hai mới là điều kiện thường tình và lý
tưởng của kẻ tin. Ngay cả những kẻ đã thấy, cũng phải tin hơn điều họ đã thấy.
Ngôi Lời từ lúc mặc lấy các phàm, nghĩa là nhân tính nơi mà vẫn phải “nhận biết
Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang”. Chúng ta, những người lãnh nhận Tin Mừng,
chúng ta quả có phúc vì đã không thấy mà nhờ những lời chứng của các Tông đồ,
chúng ta gắn bó với Chúa Kitô và trở nên những kẻ tin vào Người.
Kết luận (20,30-31)
Hai câu này làm thành đoạn kết của Tin Mừng trước khi
chương 21 được thêm vào. Gioan là tác giả duy nhất trong các thánh sử đã đưa
vào tác phẩm của mình đoạn kết. Để cho độc giả tương lai tiện sử dụng, ông có
hai xác định quan trọng:
Trước hết, Gioan nhận biết đã cố ý thực hiện một sự
tuyển chọn trong số các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu. Vậy nên cần phải ghi
nhớ điều đó mỗi khi thấy một vài thời kỳ trong cuộc đời của Chúa Giêsu được các
Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, còn ông thì vẫn im lặng, và đừng vội kết luận rằng
ông không hay biết các sự kiện đó. Trong khi định trước các môn đệ như những người
lãnh nhận các dấu lạ, Gioan đặc biệt liên tưởng đến các độc giả của mình, tuy
đã trở thành môn đệ, nhưng lại không thấy các dấu lạ được thực hiện trong cuộc
đời của ông.
Sau nữa và nhất là, ông minh định mục tiêu của mình:
kiên định các môn đệ trong đức tin vào Chúa Giêsu, vừa là Đấng Mêsia như Kinh
Thánh đã hứa, vừa là Con Thiên Chúa, từ đó các môn đệ có được sự sống nhờ Chúa
Giêsu. Như vậy, độc giả có sẵn chìa khóa để học hiểu. Tin Mừng không phải là một
quyển sách bình thường, sáng tác để cho độc giả giải trí, mà là một quyển sách
có sự sống; thừa hưởng cũng một năng lực từ sự xác tín và cũng một tiềm năng sự
sống như lúc Chúa Giêsu còn tại thế. Đối với các độc giả sinh sống vào thời mà
Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xác thể nữa, thì có quyển sách này đây, sẵn
sàng cho cuộc hội ngộ giữa độc giả và quyển sách, làm nảy sinh sự sống do đức
tin vào Chúa Giêsu, Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa.
25. Chú giải của Noel Quesson
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở...
Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà đó.
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai lần
Đức Giêsu Phục sinh “hiện ra” cách nhau tám ngày. Tự nhiên chúng ta dễ để tâm
chú ý dện lần hiện ra thứ hai với “Tôma” hơn, vì ta thường đồng hóa với ông, khi
trên thực tế ta cũng thấy nơi mình một “kẻ hồ nghi”, một “kẻ cứng lòng tin” và
có thể gặp được nơi ông một thứ biện minh cho thái độ thiếu đức tin của ta.
Nhưng dù có thông đồng với Tôma, ta cũng không thể bỏ
qua việc đọc trọn vẹn bản văn trên.
Trước tiên, ta cần lưu ý, Đức Giêsu hằng sống thường
hiện ra vào Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần, đó có phải là điều ngẫu nhiên
không? Ta quá biết rõ, thời đó các Kitô hữu tiên khởi đâu có ngày nào cũng họp
nhau lại. Hằng ngày mỗi người đều phải lo sinh kế. Họ không thể luôn sống bên
nhau. Vì thế, Đức Giêsu Phục sinh chỉ hiện “đến” trong khung cảnh buổi họp mặt
hằng tuần của họ. Chúng ta có thể nhầm lẫn khi coi đức tin như một vân đề hoàn
toàn “riêng tư” hay “cá nhân”: ta thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh
đăc biệt được nhận biết, thấu cảm, và xác nghiện trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ
tập thể. Họ cùng hiện diện với nhau, tập họp chung ‘trong Giáo Hội’.
Các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu
đến, đứng giữa các ông.
Vào lúc thánh Gioan viết những dòng trên. Giáo hội
đang gặp sợ hãi và bách hại. Các môn đệ Đức Giêsu đã có thói quen tụ họp này tại
nhà ông này, mai tại nhà ông khác. Họ đón tiếp nhau. Họ kiểm tra lẫn nhau: có
những người rút lui, có những kẻ bồ đức tin, bỏ nhóm. Họ đâm hoảng sợ. Họ đóng
kín cửa. Nhưng giờ đây mỗi Chúa nhật như “Chúa nhật đầu tiên” này, “dấu chỉ” bữa
tiệc ly lại được cử hành và một cách huyền nhiệm, Đức Giêsu lại lướt qua những
kẻ thuộc về Người, trong “nơi mà họ hiện diện” tại Êphêxô, Côrintô, Giêrusalem,
Rôma. Đúng vậy mỗi Chúa nhật là ngày Phục sinh! Chúa vẫn luôn hiện diện giữa cuộc
sống chúng con. Chính Chúa làm cho chúng con sống động, dù không thấy Chúa
nhưng chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa, ngày nay chúng con cũng dễ khóa chặt cửa lại
vì sợ hãi, khi Thánh Thần Chúa thổi đến, xin cho những bức tường vây hãm chúng
con sụp đổ, để chúng con trở lại thời ca vang: Nào ta hãy mở rộng cửa cho Đức
Kitô Phục sinh.
Trước khi đi xa hơn trong việc suy niệm đoạn tin Mừng
trên, chúng ta tự hỏi Đức Giêsu muốn giải thoát để phục sinh chúng ta khỏi những
tình trạng nào? Khỏi tình trạng bí bức không lối thoát, khỏi tình trạng sợ hãi,
đóng cửa cài then, khỏi tình trạng “nguy tử” cho mình? Đó có thể là tội lỗi, thử
thách về sức khỏe, đau đớn và thất vọng, khó khăn thuộc phạm vi gia đình, nghề
nghiệp. Đó là “Nơi các môn đệ đang hiện diện: đóng cửa cài then!”
Người nói với các ông: “Chúc anh em được bình an”. Thế rồi,
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Người lại nói với các ông: “Chúc anh em được bình an!”.
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô hữu, trước hết
không phải là niềm vui dễ dàng, niềm vui tự phát; nghĩa là niềm vui tự nhiên
làm ta thấy phấn khởi khi mọi sự đều ổn thỏa, tình trạng sức khỏe khả quan, “tuổi
trẻ” vẫn tràn đầy sinh lực, công việc đều thành công, tương quan bạn hữu và gia
đình luôn thoải mái. Nhưng niềm vui Phục sinh là niềm vui đến ‘sau' sự sợ hãi!
Đó là niềm vui và sự bình an khơi dậy từ một tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng (từ
cái chết của một kẻ bị đóng đinh) mà từ đó trở đi không có gì để cướp đi khỏi họ
niềm vui này: đó là niềm vui và sự bình an phát xuất từ “lòng tin” vào Đức
Giêsu. Cũng như ngày thứ nhất trong tuần đó, mỗi buổi họp mặt Chúa nhật, Đức
Giêsu đều chúc bình an cho ta, qua tiếng nói của Linh mục: “Bình an của Chúa ở
cùng anh chị em” và Công đồng Vatican II đã tái lập truyền thống xưa “hôn chúc
bình an”: các Kitô hữu được mời gọi trao bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô:
bắt tay nhau, ôm hôn, mỉm cười với nhau và chào chúc: “Bình an Đức Kitô. Đó
không phải là cử chỉ tầm thường, nhưng là “trở nên Đức Kitô” đối với người gần
cận của mình; “khi nhiều người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy hiện diện ở đó
giữa họ”
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em.
Đó! Chúng ta đâu có thể tưởng tượng được một lời nói
như vậy! Thế mà chính Đức Giêsu lập lại cho ta. Tôi là một con người đâu có ra
gì, thế mà lại trở nên Đức Giêsu, được sai gởi đến với anh em tôi y như Người
đã được “Chúa Cha” sai gởi đến trần gian. Chúng ta đừng lướt qua nhanh những lời
trên. Cũng đừng vội vàng gán cho Tôma là kẻ cứng lòng tin. Hãy dừng lại nơi những
lời nói trên đây của Đức Giêsu. Ta hãy hiểu biết trách nhiệm trọng đại mà Người
trao phó cho ta: “sứ vụ” của Đức Kitô được trao phó cho Giáo Hội và một phần
cho tôi. Tôi được Đức Giêsu “sai đi” như Đức Giêsu được Chúa Cha “sai đến”. Một
lần nữa tôi phải tìm hiểu ý nghĩa của hai từ trên: “sứ vụ” có nghĩa là “sự sai
đi” (bởi tiếng La tinh là “missus”) và “tông đồ” có nghĩa là “kẻ được sai đi”
(bởi tiếng Hy Lạp là ‘apostolos’). Khi tôi gặp một người nào trong công việc
làm ăn, trong môi trường sống của tôi, thì không phải chỉ nhân danh cá nhân,
hay vì lợi ích riêng của tôi, mà chính vì tôi được Đức Kitô sai đến? Tôi phải
truyền thông cho bạn một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói với bạn những
gì tôi sẽ nói với bạn; Người luôn “sống động” trong tôi. Tôi là “miệng lưỡi” của
Người, là “thân thể” Người, kề cạnh bạn, để thông tỏ cho bạn tình yêu của Chúa
Cha.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận
lấy Thánh Thần”.
Đó là việc ban Thánh Thần, một cuộc “tạo thành mới”:
Thần Khí của Đức Giêsu được thông truyền cho các môn đệ. Đức Giêsu đã chết “đã
tiến về gặp gỡ Chúa Cha” các Kitô hữu tiếp tục công trình của Người. Họ sẽ mang
hơi thở sống động của Người, mang Thần Khí Người. Họ sẽ tiếp tục thể hiện những
việc làm của Người. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: “Anh em là thân hình Đức Ki
tô. Anh em là Đền thờ của Thánh Thần”. Còn thánh Gioan cho ta biết, Đức Giêsu lập
lại cử chỉ của Thiên Chúa Đấng tạo thành trong sách Sáng thế (St 2,7): “Lạy
Thánh linh tạo dựng, xin hãy đến!”.
Đối với Gioan, việc Thánh Thần ngự đến đã xảy ra vào
chiều ngày Phục sinh: hoạt động cốt thiết của Đức Giêsu sau khi chiến thắng tử
thần, là thông ban “Thánh Thần, Đấng đã Phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết” (Rm
8,11). Trong kinh Tin kính đó là điều cốt yếu ta kháng định về Thánh Thần: “Người
là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống”. Thần Khí được trao ban cho các môn đệ
ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, sẽ hiện lộ ngời sáng trên công trường năm mươi
ngày sau đó, vào ngày lễ Ngũ tuần. Đó là thần khí của Thiên Chúa vừa mới thành
công rực rỡ, ta dám nói như thế - khi giật Đức Giêsu ra khỏi quyền lực tử thần,
và mạc khải Ngài như con Thiên Chúa, nhờ cuộc Phục sinh. “Xét như Đấng đã được
Thần Khí thánh hóa, Người đã được đặt làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng,
do việc Người từ cõi chết sống lại” (Rm 1,4).
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.
'Thắt buộc” và “tháo cởi”, “tha giải” và “cầm giữ”.
Kiểu nói này là một hình thức văn phạm của tiếng Aramên: theo đó, người ta dùng
hai từ nghịch nghĩa nhau để xác nhận một thực tại cách mạnh mẽ hơn, và để nhấn
mạnh tới từ mang tính “tích cực”. Như thể, khi trao ban cho các môn đệ Thần Khí
Ngài, Đức Giêsu cũng thông nho họ quyền tháo gỡ con người khỏi sự ác: kể từ đó,
ngay tại trần gian, các ông trở nên những kẻ mang” tình xót thương của Thiên
Chúa cho mọi người, cũng như Đức Giêsu đã trở nên hiện thân của tình thương đó!
“Như Chúa Cha đã sai Thầy thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”. Người Kitô hữu
cũng được trao ban cho chính sứ vụ mà Đức Giêsu đã tuyên bố là của Người, trong
Hội đường Nagiarét, vào lúc khởi đầu tác vụ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố một
năm hồng ân của Chúa, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc, 4,18-19). Tôi có
mang thần khí đó, Thần khí giải phóng, Thần khí ban sự sống, Thần khí yêu mến
và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một người trong nhóm Mười Hai, nên là Tôma, không có mặt khi
Đức Giêsu đến. Ông nói: “Nếu tôi không thấy... tôi chẳng có tin”.
Đó là “con người chậm trễ”. Sau buổi lễ gặp mặt, ông
mới tới. Trong Tin Mừng, Tôma luôn là người chỉ tin vào lương tri của mình, là
người thiết thực nên nghi ngại cả thái độ liều lĩnh của Đức Giêsu: “Lạy Thầy,
chúng con không biết Thầy đi đâu? (Ga. 14,15). Khi Đức Giêsu nói đến sự phục
sinh cho Lagiarô, thì Tôma chỉ thấy trước mắt cái chết (Ga 11,15-16).
Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến và nói: “Đặt ngón tay vào
đây và hãy nhìn xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa”.
Một tuần. Tôi thấy như Đức Giêsu đang mỉm cười hóm hỉnh
trao đổi với Tôma. Người có vẻ đang nói với ông: “Này anh bạn, bạn tưởng tôi đã
chết và khuất mặt, khi bạn bày tỏ thái độ không tin. Nhưng tôi vẫn hiện diện
lúc đó, cách vô hình, chứng kiến các bạn nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, lúc đó
tôi không tỏ mình ra với các bạn”. Đó là thái độ kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người
đã chọn thời gian của Người.
Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Đó là tiếng kêu diễn từ một lòng tin của con người đã
đòi “chạm, thấy”. Ong đã hiểu được Đức Giêsu cho dù không hiện hình, vẫn có đó!
Người hiện diện cả vào giờ phút ông nghi ngờ.
Vì thấy Thầy, nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy
mà tin.
Đó là mối phúc, mối phúc cuối cùng. Những thực tại
cao siêu nhất của Thiên Chúa, ta không thể tự mình thấy được. Chỉ có “đức tin”
dẫn đưa chúng ta tiến sâu vào những thực tại đó. Và đó chính là hạnh phúc đích
thực!
26. Chú giải của Fiches Dominicales
Từ Chúa nhật này tới Chúa nhật kia
Từ nhận thức đến truyền giáo(Ga 20,19-31)
Từ nhận thức đến truyền giáo(Ga 20,19-31)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ ‘ngày đầu tuần’
Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này đưa ta đến “sau
cái chết của Đức Giêsu, vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần ngày quy tụ phụng
vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn
mà Người quy tụ lại để chia sẻ Lời và Bánh, và để sai họ đi vào thế giới.
Các môn đệ quy tụ lại ở cùng một nơi: một kiểu nói mà
thánh sử dùng để báo trước tính giáo hội của việc Chúa hiện ra mà ngài sắp tường
thuật. Các cửa đều “đóng kín” vì “sợ người Do thái? Nỗi sự hãi cho đến lúc này
vốn bao trùm những người Israel, đến nỗi họ không dám tuyên bố ủng hộ Đức
Giêsu, thì từ nay còn là phận của các môn đệ thân tín của Chúa: các ông đang cảm
nhận một tâm trạng lo âu sọ hãi mà lát nữa đây ơn bình an sẽ đối nghịch lại và
khoả lấp hết.
Người ta dễ dàng nhận ra ba tiến trình đặc biệt của
những lần gặp gỡ sau phục sinh: Đức Giêsu có sáng kiến (1), Người tự tỏ mình ra
cho các môn đệ (2) người uỷ thác cho các ông một sứ mạng (3).
Sáng kiến của Đức Giêsu:
* Đức Giêsu “đến” như vậy là Người thể hiện lời đã hứa
với các môn đệ trong bài diễn từ giã biệt: “Thầy sẽ đến cùng anh em”
(14,18-28).
* Người “đứng giữa các ông”, dịch sát nghĩa là “Người
đứng dậy”, chuyển từ trạng thái đang nằm, ý nói là chết sang tư thế thẳng đứng
của Đấng phục sinh.
* “Chúc anh em được bình an”. Đó là những lời đầu tiên
Đấng-hằng-sống gởi cho các môn đệ của Người đang tu họp. Đây không phải chỉ là
lời chào hỏi thông thường “Shalom” của những người Do thái khi gặp nhau. Càng
không phải là lời cầu chúc suông, nhưng là ơn huệ mang hiệu quả thực sự của
Bình an, đúng như lời Chúa hứa: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy; Thầy ban
cho anh em không như thế gian ban tặng” (14.27).
Các môn đệ nhận biết Chúa.
Đức Giêsu cho họ xem “tay và cạnh sườn Người” (đối
chiếu với ngọn giáo của Gioan 19,34). Chắc chắn từ nay đã qua rồi thời gian người
hiện diện thể lý, nhưng Đấng đang đứng giữa họ lúc này vẫn là Đức Giêsu, nghĩa
là cũng vẫn là Đấng mà họ đã thấy chết và được mai táng, nhưng từ nay đã biến
hình đổi dạng nhờ mầu nhiệm Phục sinh. Và trong cái “nhận Thầy” do lòng tin ban
cho, các môn đệ “tràn đầy niềm vui” niềm vui bất tận và Chúa đã báo trước cho
các ông: “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh
em không ai lấy mất được” (16,22).
Trao phó sứ mạng:
Việc các môn đệ được gặp Đấng-đang-sống, cùng nhận ra
Đấng đã trải qua và chiến thắng vẻ vang cơn thử thách của cái chết trên thập
giá, không phải là đã hoàn tất. Cuộc gặp gỡ ấy giờ đây khai mở một sứ mệnh.
* Sau khi đã làm mới lại ơn bình an: “Chúc anh em được
bình an!”.
* Đức Giêsu “thổi hơi vào các ông”, làm lại cử chỉ ban
đầu khi tạo dựng con người, giống như trong Sáng thế ký 2,7: ở đây hành động
này càng ám chỉ rõ nét là hành động sáng tạo của Chúa, nhất nữa vì đây là lần
duy nhất Tân Ước sử dụng cách diễn tả của bản văn Sáng thế ký.
Đúng là một cuộc tạo dựng mới. Đức Giêsu vinh hiển
thông ban Thần Khí tái sinh cho con người. Khi cho họ được chia sẻ sự hiệp
thông với Chúa. “Như (chữ ‘Như' ở đây không phải chỉ là một so sánh, nhưng ám
chỉ một nền tảng, một liên hệ sâu xa) Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy
cũng sai anh em”.
* Và nếu các môn đệ được sai đi, chính là để loan báo
cho ‘mọi người tin mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa’. X. Leon- Dufour giải
thích: “Tha/cầm giữ “ lối văn chương Do thái dùng một cặp từ trái nghĩa nhau để
diễn tả một sự trọn vẹn ở đây cách diễn tả ấy có nghĩa là trọn vẹn quyền thương
xót được đấng Phục sinh trao ban cho các môn đệ. Thể văn thụ động diễn tả hiệu
quả đạt được đều ngụ ý rằng chính Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn tha thứ, cách
dùng thì (động từ) ở quá khứ hoàn thành có nghĩa là ơn tha thứ của Chúa là yếu
tố quyết định. Người ta sẽ có thể giải thích một cách rộng rãi là khi cộng đoàn
tha thứ, thì chính Thiên Chúa tha thứ vậy. (Lecture de l'evangile
se lon Jean. quyển IV, Seuil. tháng 11/1996, trang 241).
2) đến buổi tụ họp “tám
ngày sau”
Lần hiện ra thứ hai đã được tác giả đặt vào ‘tám ngày
sau’, tức Ngày Chúa nhật tiếp đó, ngày mà các Kitô hữu của Gioan quy tụ lại để
cử hành Thánh Thể, để chia sẻ Bánh và Lời như chúng tôi đã viết ở trên. Ngày đó
trong sách Khải Huyền, cũng được gọi là “Ngày của Chúa”. Đó là ngày tưởng niệm
mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô.
Ông Tôma, được tác giả báo trước, “không có mặt khi Đức
Giêsu đến”. Độc giả của Phúc âm thứ tư đồng hoá mình ngay với Tôma, bởi lẽ
chính người ấy cũng được mời gọi chỉ dựa vào nguyên chứng từ của các Tông Đồ mà
có được niềm tin phục sinh: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”.
Ngay lập tức, Tôma từ chối nhận chứng từ của cộng
đoàn; ông đòi xem tận mắt, sờ tận tay, tự mệnh xác minh thì mới tin: “nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Thế là diễn ra lần hiện ra thứ hai của Đức Giêsu được
mô tả cùng một kiểu cách như lần trước. Đức Giêsu lại hiện đến, mặc dầu các cửa
đều “đóng kín”. Một lần nữa Người nói lời cầu chúc bình an cho các môn đệ, lời
mang ơn cứu độ của phục sinh: “Chúc anh em được bình an!”. Người cho Tôma xem
tay và cạnh sườn như để nhấn mạnh cho ông hiểu rằng Đấng bị đóng đinh xưa với Đấng
nay được vinh hiển cũng là một. Giữa hai tình trạng đó vẫn có sự nối kết và
liên tục. Rồi Người bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy.
Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy
tin”.
Tác giả chẳng cần nói đến chuyện người môn đệ kia
không còn nghĩ đến việc đưa bàn tay ra để sờ và đặt vào cạnh sườn Chúa nữa. Ông
kể lại phản ửng tức thời của Tôma là thay đổi hẳn thái độ; con người ấy một khi
đã vấp phải chướng ngại là cái chết, thì giờ đây công khai tuyên xưng niềm tin
tuyệt đối:
“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”, trong tư cách là
người phát ngôn của cộng đoàn Kitô hữu. Độc giả nào tự cho mình có thái độ như
thái độ đầu tiên của Tôma đều được mời gọi thực hiện một sự trở lại tương tự.
3) Cho tới Chúa nhật hôm
nay, ngày chúng ta tụ họp
Câu chuyện Đức Giêsu hiện ra kết thúc bằng một mối
phúc hứa ban cho tất cả. Những ai đang sống vào thời không còn sự hiện diện hữu
hình của Đức Kitô, cũng hứa ban cho chính chúng ta, những con người hôm nay
đang tụ họp nhân danh Người: “Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc”.
Dufour kết luận: “Lời hứa này không còn liên quan tới
Tôma nữa, nhưng là nhắm đến các môn đệ tương lai. Cộng đoàn Kitô hữu hôm nay
không có gì phải nuối tiếc về khoảng cách và sự khác biệt về hoàn cảnh sống của
mình. Nếu cách thức cộng đoàn tiếp cận niềm tin không giống như các tông đồ trước
đây, thì những ai đang và sau này không thấy mà tin, chính họ là người có phúc
vậy. Kinh nghiệm mà những chứng nhân tận mắt được hưởng là kinh nghiệm làm nền
và không thể được tái diễn: kinh nghiệm ấy được ban cho họ không chỉ vì họ mà
thôi, nhưng còn vì những thế hệ tương lai mà lòng tin sẽ dựa vào lời chứng được
truyền lại cùng với sức mạnh của Thánh Thần, chứ không dựa vào những dấu chỉ cụ
thể về sự Chúa hiện diện, xuyên qua các môn đệ đang đứng trước mặt Người lúc
đó, Đức Giêsu hướng chú ý của Người tới tất cả những ai sẽ nối tiếp các ngài
sau này tới tất cả con cái Thiên Chúa mà Người đã đến quy tụ lại nên một; vào
buổi chiều lễ Vượt qua. Đức Giêsu há đã chẳng nói với các môn đệ của Người rằng
sứ mạng của các ông từ nay sẽ diễn tả và nối dài sứ mạng của Người đó sao? Giờ
đây lòng trí Người hẳn đang nghĩ tới những ai sẽ là thành quả của sứ mạng được
sai đi rao giảng và làm chứng này.
Cuộc gặp gỡ của Đấng đang-sống với các môn đệ của Người
không kết thúc bằng sự nghỉ ngơi. Cuộc gặp gỡ ấy vẫn luôn là một khai mở hàng về
một tương lai vô tận trong niềm hân hoan tồn tại dù khi các chứng nhân tận mắt
không còn nữa. Đó là điều đã được diễn tả khéo léo trong thư thánh Phêrô: “Tuy
không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt, mà lòng vẫn kính
tin. Vì vậy anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả” (1Pr 1,8-9) (O.C.,
trang 251-252).
BÀI ĐỌC THÊM
Từ những lần Đức Kitô hiện
ra đến việc Người loan báo
(G.Bessière, trong Thiên Chúa rất gần,
Năm A”, Desclée de Brouwer, trang 53-54).
“Lời Chúa nói với Tôma: “Vì anh đã thấy Thầy, nên anh
mới tin. Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc” không đặt Tôma vào vị trí
đối lập vời các tông đồ khác. Lời đó phân biệt ra hai lớp người tin: thế hệ các
chứng nhân trực tiếp về đời sống Đức Giêsu và đông đảo các tín hữu sau này
không được biết trực tiếp Đức Giêsu. Chế độ thông thường của đức tin sẽ là như
vậy.
Câu chuyện kể về ông Tôma đánh dấu sự chuyển đổi từ
những lần Đức Kitô “hiện ra” đến việc Người “loan báo”. Từ nay chứng từ phải
khơi gợi nên sự gắn bó với “con đường” là chính Đức Giêsu. Ta sẽ gặp lại Người
đang khi cùng với các anh em bước theo Người trên con đường ấy, và đang khi sống
chan hoà tình cảm tạ, tình huynh đệ, tình hoà hảo, là những dấu chỉ thâm sâu của
Chúa Thánh Thần.
Nhiều người vẫn muốn tìm kiếm những biến cố lạ thường,
những dấu hiệu giật gân thuộc loại được Chúa hiện ra hoặc được thị kiến mà chẳng
mấy khi quan tâm đến Phúc Âm của Đức Giêsu, hay đời sống của các Kitô hữu, cùng
tất cả những gì Chúa làm trong cuộc sống đời thường của con người. “Ai không thấy
mà tin, mới là người có phúc”. Tin là ngày qua ngày đi theo Đức Kitô phục sinh
đồng thời đón nhận ơn Người thúc đẩy biến đổi đời mình theo lòng mong ước của
Chúa Cha vậy”.
nguồn tin:giaophanvinh.net
0 Nhận xét
Đăng nhận xét